Hướng dẫn sử dụng khẩu trang

1. Vì sao cần mang khẩu trang để phòng tránh bệnh cúm A/H1N1?
  • Cho đến thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều chứng cứ cho thấy sự lây lan từ người sang người của vi-rút cùm A/H1N1 chủ yếu là qua những giọt dịch tiết đường hô hấp của người bệnh được bắn vào không khí khi người bệnh nói, ho, hắt hơi. Mang khẩu trang che kín mũi, miệng là một trong những biện pháp giúp giảm và phòng tránh được sự lây lan này.

2. Những người nào nên mang khẩu trang ?

+ Người thân trong gia đình, bạn bè , những người trực tiếp chăm sóc, tiếp xúc với người bị cúm A/H1N1 hoặc người có biểu hiện sốt, ho, đau họng, hắt hơi,nhất là khi không gian tiếp xúc chật hẹp, không thông thoáng.

+ Nhân viên y tế

+ Người bị bệnh cúm A/H1N1 hoặc có các biểu hiện của bệnh cúm.

+ Người sống trong vùng đang có dịch xảy ra.

3. Nên sử dụng những loại khẩu trang nào?

Có thể sử dụng những loại khẩu trang bày bán trên thị trường(bằng giấy hay bằng vải), nếu không có khẩu trang có thể dùng khăn tay, mảnh vải sạch để che mũi miệng nhưng phải bảo đảm những nguyên tắc sau đây:

+ Khẩu trang phải được buộc chặt, che kín mũi miệng, không có khoảng hở nào giữa khẩu trang và vùng mũi miệng của người sử dụng.

+ Nếu là khẩu trang bằng vải thì phải khô, không được ẩm ướt.

+ Tránh mọi sự chạm tay vào khẩu trang trong suốt thời gian mang khẩu trang. Nếu lỡ chạm tay vào thì phải rửa tay bằng xà phòng ngay.

+ Không sử dụng chung khẩu trang với người khác.

+ Khẩu trang của người bệnh phải được thay mới hàng ngày, khẩu trang đã sử dụng phải được vứt bỏ vào thùng rác.

+ Người tiếp xúc với người bệnh phải thay mới khẩu trang thường xuyên sau mỗi lần tiếp xúc, nếu là khẩu trang vải thì phải giặt thường xuyên với xà phòng và đem phơi nắng. Sau mỗi lần giặt khẩu trang phải rửa tay ngay bằng xà phòng dưới vòi nước.

+ Khi muốn cởi bỏ khẩu trang phải dùng tay tháo dây đeo khẩu trang ra, chỉ cầm phần dây đeo của khẩu trang, tuyệt đối không chạm tay vào bề mặt của khẩu trang. Rửa tay bằng xà phòng sau mỗi lần cởi bỏ khẩu trang .

THU TRANG (theo WHO 1/5/2009)