QUÁ TRIỂN NƯỚU DO PHENYTOIN

viem-nuou-do-phenytoin Phenytoin (Dilantin, hoặc diphenylhydantoin), là thuốc chống co giật chính trong điều trị động kinh, được giới thiệu lần đầu vào cuối những năm 1930 với các tác dụng phụ thường gặp là tăng sản nướu ở các mức độ khác nhau, mô tả lần đầu bởi Kimball năm 1939. Ông báo cáo rằng trong 119 bệnh nhân dùng phenytoin để kiểm soát hoạt động, 57% bị quá triển nướu ở một mức độ nào đó.

  • Hiện nay, ước tính khoảng 2 triệu người sử dụng thuốc này vì sự an toànvà phổ biến của nó. Tỉ lệ quá triển nướu do phenytoin (PIGO) ở những bệnh nhân điều trị phenytoin lâu dài đã được báo cáo từ 0% đến 95%, rất nhiều nhà điều tra báo cáo số liệu ở mức 40% đến 50%.
  • Những nghiên cứu trước đây cho thấy sự gia tăng nguyên bào sợi ở những bệnh nhân được điều trị bằng Dilantin, do đó bệnh còn được gọi là tăng sản Dilantin. Ngày nay, thuật ngữ quá triển nướu do phenytoin được sử dụng nhiều hơn vì Hassell và các đồng nghiệp đã tìm thấy không có sự tăng sản, không có sự gia tăng collagen tích tụ trên một đơn vị mô, cũng không có bất thường về số lượng và kích thước các nguyên bào sợi.

Sự ảnh hưởng của nồng độ phenytoin trong huyết thanh và nước bọt trên sự phát triển của PIGO cũng được nghiên cứu.
Một số tác giả báo cáo có mối tương quan thuận giữa nồng độ phenytoin trong huyết thanh và nước bọt với mức độ nghiêm trọng của PIGO trong một số trường hợp. Các nhà điều tra khác thì cho rằng không tồn tại mối tương quan này. Tuy nhiền, tất cả đều đồng thuận rằng có tồn tại một mối quan hệ giữa liều lượng thuốc và mức độ PIGO khi lượng phenytoin trên mỗi đơn vị trọng lượng cơ thể hoặc nồng độ thuốc thực tế trong huyết thanh thay đổi. Sasaki và Maita báo cáo có mối tương quan mật thiết giữa mức độ quá triển nướu và nồng độ tác nhân gây tăng sinh nguyên bào sợi trong huyết thanh. Không có mối tương quan nào được quan sát với tuổi bệnh nhân, liều phenytoin hàng ngày hoặc tổng lượng phenytoin, thời gian điều trị, hoặc mức phenytoin huyết thanh.

  • Hầu hết các nhà nghiên cứu đồng ý rằng có mối quan hệ chặt chẽ giữa vệ sinh răng miệng và PIGO. PIGO có thể được giảm hoặc ngăn ngừa bằng cách vệ sinh răng miệng kỹ lưỡng và dự phòng nha khoa. Mối quan hệ giữa mảng bám, các kích thích tại chỗ, và PIGO cũng được quan sát, ở các bệnh nhân không có răng hầu như không bao giờ bị PIGO.

PIGO xuất hiện sớm nhất là 2 đến 3 tuần sau khi bắt đầu điều trị phenytoin và phát triển cao nhất ở 18 đến 24 tháng. Dấu chứng lâm sàng đầu tiên là phì đại gai nướu không đau. Phía môi má và phía trước thường bị ảnh hưởng hơn so với phía lưỡi và phía sau. Các vùng bị ảnh hưởng đầu tiên có giới hạn nhưng sau đó lan rộng ra toàn thể. Trừ khi có hiện tượng viêm hoặc nhiễm trùng thứ cấp, nướu vẫn có màu hồng, săn chắc và không chảy máu khi thăm khám. Khi các thùy nướu bắt đầu phát triển giữa các răng, các đường phân chia giữa các răng bắt đầu xuất hiện rõ. Khi các thùy kết hợp lại ở đường giữa, tạo thành túi giả và bao phủ thân răng nhiều hơn. Biểu mô bám dính thường không đổi. Trong một số trường hợp, toàn bộ mặt nhai của răng bị bao phủ. Những tổn thương này có thể là mô xơ hoặc có thể bị viêm nhiễm kết hợp.

  • PIGO có thể ảnh hưởng về thẩm mỹ, gây khó khăn trong việc ăn nhai, phát âm không chuẩn, chấn thương mô, và viêm thứ cấp dẫn đến bệnh nha chu. Không có biện pháp điều trị và thường là điều trị triệu chứng. Thuốc kháng histamine, corticosteroid tại chỗ, bổ sung acid ascorbic (vitamin C), kháng sinh tại chỗ, và các loại nước súc miệng có tính kiềm đã được sử dụng cho thấy kết quả hạn chế và được xem là không có hiệu quả.

Steinberg và Steinberg đưa ra phương pháp điều trị nha khoa dựa trên các dấu hiệu lâm sàng trong miệng và các triệu chứng. Bệnh nhân PIGO nhẹ (tức là ít hơn 1/3 thân răng lâm sàng bị bao phủ) cần vệ sinh răng miệng hàng ngày tỉ mỉ và thường xuyên kiểm tra sức khỏe răng miệng. Đối với các bệnh nhân PIGO ở mức độ vừa (tức là từ 1/3 đến 2/3 thân răng lâm sàng bị bao phủ) cần chăm sóc răng miệng kỹ và sử dụng nước súc miệng loại trừ mảng bám (0,12% chlorhexidine gluconate) để kiểm soát sự tăng trưởng vi khuẩn. 4 tuần đầu tiên nên điều trị dự phòng và sử dụng fluor tại chỗ. Tuần thứ năm đánh giá tình trạng nướu và lưu ý đến bất kỳ sự thay đổi nào về kích thước. Liều lượng phenytoin cần được kiểm tra (liều điều trị bình thường là 10 đến 15 mg/mL). Nếu vẫn không thay đổi, cần hội ý với bác sĩ của bệnh nhân về việc sử dụng một loại thuốc chống co giật khác. Nếu không có sự cải thiện, phẫu thuật cắt nướu quá triển có thể được sử dụng. Đối với những bệnh nhân PIGO nặng (tức là, hơn 2/3 của thân răng bị bao phủ), những người không đáp ứng với những phác đồ điều trị trước đây, cần phẫu thuật cắt nướu. Như trong bất kỳ phẫu thuật nha chu nào, cạo vôi răng và nạo láng mặt gốc răng trước phẫu thuật và vệ sinh răng miệng kỹ sau khi phẫu thuật là điều cần thiết để giảm thiểu sự quá triển có thể xảy ra sớm nhất sau phẫu thuật 3 đến 4 tuần. Donnenfeld và các đồng nghiệp nhận thấy không có tái phát PIGO sau 9 tháng phẫu thuật. Nếu cần phẫu thuật lần thứ hai và bệnh nhân có tiền sử tái phát nhanh, một thiết bị tạo áp lực nên được xem như một dụng cụ hỗ trợ chăm sóc răng miệng .

  • Phương pháp phẫu thuật cho PIGO bao gồm cắt nướu bằng dao nha chu, laser, hoặc đốt điện và phẫu thuật lật vạt. Việc sử dụng dao nha chu giúp mô nhanh lành hơn, nhưng có chảy máu trong và sau phẫu thuật, và thủ thuật mất nhiều thời gian và cần sự hợp tác của bệnh nhân. Đốt điện tiết kiệm thời gian nhất, giảm mất máu, kết quả cải thiện ngay, dễ kiểm soát ở vùng khó tiếp cận và tự khử trùng. Bất lợi bao gồm chống chỉ định ở những bệnh nhân mang máy tạo nhịp tim, mùi khó chịu, chậm lành thương  và có thể tiềm ẩn khả năng mất xương hoặc mô không mong muốn. Ưu điểm của laser bao gồm không gây chảy máu, không va chạm, tiếp xúc trong quá trình phẫu thuật, phẫu trường vô khuẩn, lành thương nhanh, tối thiểu hóa khó chịu hậu phẫu và thủ thuật ít tốn thời gian. Bất lợi bao gồm chi phí và kích thước của thiết bị, phải tiến hành trong bệnh viện, chậm lành thương ở một số mô, đòi hỏi chuyên môn cao, mất phản hồi xúc giác, yêu cầu thiết bị bảo vệ mắt, laser có khả năng đốt cháy nhựa hoặc cao su của ống nội khí quản, và cần bao phủ khu vực không phẫu thuật bằng lá chắn bọt biển ẩm để tránh sự xâm nhập của tia laser. Phẫu thuật lật vạt cũng có thể được sử dụng cho các bệnh nhân PIGO và có một số ưu điểm hơn các phương pháp trên: nhanh lành thương (kích thích quá trình lành thương nguyên phát), kiểm soát xuất huyết hậu phẫu, giảm thiểu đau sau mổ. Việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật phụ thuộc vào phẫu thuật viên và dựa trên sự hợp tác và tuân thủ của bệnh nhân, mức độ quá triển nướu. Sự lành thương thường diễn ra trong tất cả các phương pháp trên.

Phẫu thuật cắt bỏ các mô quá triển nặng trong PIGO và vệ sinh răng miệng tốt sau khi phẫu thuật thường được coi là biện pháp điều trị hiệu quả nhất. Tuy nhiên, vẫn có sự tái phát dần dần của các mô xơ.
Nghiên cứu ban đầu của Davis và cộng sự sử dụng một thiết bị tạo áp lực để điều trị PIGO đã được báo cáo. Ngay sau khi phẫu thuật cắt bỏ mô tăng sản, tạo một lực ép và một thanh tạo áp lực dương được đặt vào. Băng nha chu được gỡ bỏ vào cuối tuần thứ 1, và thiết bị tạo áp lực dương được chèn vào. Bảy trong số chín người của nhóm thử nghiệm không có sự tái phát của bệnh tăng sản nướu, một người có tái phát nhẹ, và một  người có tái phát vừa phải. Loại thiết bị bằng cao su tự nhiên và các loại có khung crom-coban lót bằng nhựa mềm cho hiệu quả như nhau. Thiết bị này thường được sử dụng vào ban đêm nhưng có thể được mang cả ngày và đêm nếu cần thiết. Sheridan và Reeve cũng báo cáo thành công trong việc kiểm soát sự phát triển quá mức nướu bằng các thiết bị tạo áp lực tích cực.
Steinberg cho rằng việc sử dụng một loạt các thiết bị tạo áp lực có thể làm giảm kích thước nướu quá sản mà không cần phẫu thuật. Ông đã báo cáo một trường hợp trong đó các bệnh hệ thống hiện mắc là chống chỉ định của phẫu thuật tái cấu trúc mô nướu. Sau khi tình trạng vệ sinh răng miệng cải thiện, các thiết bị tạo áp lực làm từ đá được đặt ở xương hàm trên và xương hàm dưới của bệnh nhân sau khi cắt bỏ đi 2 mm đá ở phần nướu quá triển. Bệnh nhân mang thiết bị khoảng 12 giờ mỗi ngày trong 4 tuần, sau đó một thiết bị tạo áp lực mới được thực hiện. Steinberg quan sát thấy kích thước tổn thương nướu giảm rõ rệt sau 8 tuần điều trị. Ông đề nghị một loạt các thiết bị như vậy có thể thành công trong việc giảm dần nướu quá triển đến giới hạn chấp nhận được trên lâm sàng. Ông cũng chỉ ra rằng phương pháp này không thực tế cho mọi bệnh nhân, nhưng nó có thể có giá trị ở những bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật răng miệng.
Drew và cộng sự và Backman và cộng sự đã báo cáo rằng các bệnh nhân PIGO hoặc các bệnh nhân có nguy cơ cao có thể đáp ứng tốt với điều trị bằng folate. Nghiên cứu của họ cho thấy mức độ nghiêm trọng của PIGO giảm trong những bệnh nhân được bổ sung axit folic. Các đồng nghiệp của Drew tiếp tục chứng minh rằng súc miệng tại chỗ axit folic hai lần mỗi ngày cho phản ứng mô tốt hơn đáng kể so với bổ sung axit folic đường uống. Nghiên cứu của họ cho thấy rằng liệu pháp acid folic có thể ức chế PIGO.
Các loại thuốc khác được cho là làm tăng quá triển nướu ở một số bệnh nhân bao gồm cyclosporin, thuốc ức chế kênh canxi, acid valproic, và phenobarbital. Cũng như với tất cả các bệnh ảnh hưởng đến mô nha chu, duy trì tình trạng vệ sinh răng miệng tốt là chìa khóa thành công của điều trị.
Bác sĩ Lê Như Thúy Quỳnh

Thông tin cung cấp bởi:
Nha khoa thẩm mỹ AVA
Công ty TNHH Nha Khoa Thẩm Mỹ AVA
Địa chỉ duy nhất: 31 Trần Khắc Chân, P.Tân Định, Q.1, TP.HCM
Hotline: (08) 6288.7777 - 22.297.297
BS. Phạm Việt Hùng : 09.1615.7777
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Website: http://benhvienthammy.com.vn